Bảo hiểm nhân thọ là một công cụ tài chính có mặt tại Việt Nam gần 30 năm (kể từ năm 1996). Từ đó đến nay, sản phẩm tài chính này vẫn còn tạo ra nhiều luồng ý kiến bàn luận khác nhau, chủ yếu đến từ việc chưa có những hiểu biết đầy đủ về bản chất cũng như nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm nhân thọ.
Nắm rõ các nguyên tắc trong bảo hiểm nhân thọ giúp bạn bảo đảm tối đa được quyền lợi của mình. Hãy chắc chắn nắm rõ điều đó trước khi đặt bút kí kết hợp đồng thoả thuận bảo hiểm với một công ty nào đó.
Và nhớ rằng, dù ở bất cứ công ty nào thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự về giao kết hợp đồng, cùng các nguyên tắc hoạt động ngành bảo hiểm trong luật kinh doanh bảo hiểm được đề cập dưới đây.
1. Nguyên tắc rủi ro ngẫu nhiên
Nguyên tắc này chỉ ra rằng, bảo hiểm nhân thọ chỉ bảo hiểm cho những rủi ro bất ngờ, ngẫu nhiên, không lường trước được – chứ không bảo hiểm cho những rủi ro chắc chắn xảy ra hoặc đã xảy ra.
Ví dụ như trước khi bạn tham gia bảo hiểm bạn đã có sẵn một bệnh lý nào đó, ví dụ như: U nang tuyến giáp Tirads 2 (trường hợp đang ngày càng phố biến trong những người trẻ tuổi trong đời sống làm việc đô thị)
Như vậy thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chi trả quyền lợi cho trường hợp bạn điều trị bệnh lý này ở tuyến giáp. Rủi ro này đã tồn tại sẵn và khả năng dẫn tới phát sinh nhiều chi phí y tế trong tương lai là gần như chắc chắn.
Tại sao có nguyên tắc rủi ro ngẫu nhiên? Hãy hình dung bạn và 9 người nữa cùng nhau góp tiền và thoả thuận rằng: trong tương lai nếu xảy ra sự cố gì thì số tiền chung đó sẽ được trả cho người gặp biến cố để bù đắp phần nào. Nhưng một kẻ chen chân vào mang trong mình một biến cố có sẵn, người đó nhanh chóng nhận khoản tiền chung mà cả nhóm 10 người đã gom góp, lấy đi cơ hội được bù đắp của những người chính đáng; kế hoạch chung bị đổ bể ngay lập tức.
Đó chính là ý nghĩa của nguyên tắc rủi ro ngẫu nhiên. Nguyên tắc này giúp loại bỏ các trường hợp trục lợi bảo hiểm bằng những rủi ro chắc chắn, muốn tham gia bảo hiểm để nhận được tiền ngay, gây ảnh hưởng đến những người tham gia khác cũng như doanh nghiệp bảo hiểm.
2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối
Các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm phải cung cấp thông tin, thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách trung thực nhất, trên cơ sở tin tưởng tuyệt đối lẫn nhau trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm
Đối với người tham gia bảo hiểm:
Khai báo trung thực, chính xác không chỉ là nghĩa vụ mà còn là lá chắn bảo vệ quyền lợi bảo hiểm người tham gia một cách chắc chắn.
Bởi hợp đồng bảo hiểm là cam kết dài hạn giữa khách hàng và công ty bảo hiểm, vì vậy việc khai báo đầy đủ và chính xác thông tin về sức khỏe, thông tin cá nhân… chính là một trong các cơ sở để doanh nghiệp bảo hiểm xem xét chấp nhận hay từ chối bảo hiểm. Từ đó có đảm bảo duy trì hiệu lực của hợp đồng hay không.
Nếu người mua bảo hiểm cố tình khai báo sai sự thật nhằm trục lợi bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền không bồi thường cũng như hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm vẫn là bên phải chịu trách nhiệm cuối cùng cho việc kê khai của mình, do đó phải luôn cẩn trọng, trung thực để kê khai chính xác toàn bộ thông tin, nhất là những thông tin liên quan đến người được bảo hiểm để tránh rắc rối sau này.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm:
Không chỉ người tham gia bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải thực hiện nguyên tắc trung thực tuyệt đối, phải cung cấp đầy đủ và chính xác, đồng thời giải thích rõ ràng các thông tin, điều khoản, nghĩa vụ, quyền lợi có trong hợp đồng bảo hiểm, nhất là các điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm nguyên tắc này, khách hàng hoàn toàn có quyền hủy bỏ hợp đồng, được hoàn lại phí bảo hiểm đã đóng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Tại sao có nguyên tắc trung thực tuyệt đối? Một hợp đồng được giao kết dựa trên sự hiểu biết đầy đủ lẫn nhau của đôi bên, vì vậy cả hai bên cần đưa ra tất cả những thông tin có thể ảnh hưởng tới quyết định hình thành nên một hợp đồng bảo hiểm. Một hợp đồng bảo hiểm được hình thành dựa trên những điều kiện xác thực, xác đáng, nó sẽ luôn được bảo vệ trước pháp luật. Nhưng nếu giao kèo bảo hiểm được xác lập trên sự gian dối từ một bên, nó sẽ gây ra sự thiệt hại và được xử lý theo luật định.
Hợp đồng bảo hiểm giống như một ngôi nhà tồn tại lâu dài che chở cho chủ nhân. Hãy đảm bảo nó được xây dựng trên một nền móng chân thật và vững chãi.
3. Nguyên tắc “Quyền lợi có thể được bảo hiểm”
Đây là nguyên tắc nhằm xác định đối tượng mà công ty bảo hiểm sẽ đứng ra bảo vệ theo sự yêu cầu từ người mua bảo hiểm. Không phải đối tượng nào cũng có thể trở thành người được bảo hiểm. Tức là chỉ có những đối tượng thoả mãn ‘quyền lợi có thể được bảo hiểm mới’ có thể được công ty bảo hiểm chấp thuận bảo vệ và bồi thường khi sự cố xảy ra.
Bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm phù hợp với từng loại hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Với bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khoẻ, Điều 34 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định rõ Quyền lợi có thể được bảo hiểm như sau:
Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với những người sau đây:
- Bản thân bên mua bảo hiểm;
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con của bên mua bảo hiểm;
- Anh ruột, chị ruột, em ruột hoặc người khác có quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng với bên mua bảo hiểm;
- Người có quyền lợi về tài chính hoặc quan hệ lao động với bên mua bảo hiểm; Người được bảo hiểm đồng ý bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm sức khỏe cho mình.
Tại sao cần nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm? Để đảm bảo bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm có mối quan hệ khăng khít và bảo vệ lẫn nhau, không xảy ra tình trạng cố tình huỷ hoại, cố tình gây thương tích cho người được bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường. Đây là hình thức trục lợi bảo hiểm có thật, vẫn còn đang diễn ra.
Nếu như ở bảo hiểm hàng hoá, một lô hàng khi mua bảo hiểm mà chẳng may bị cháy nổ thiệt hại, công ty bảo hiểm phi nhân thọ sẽ thực hiện giám định thiệt hại và bồi thường số tiền KHÔNG LỚN HƠN giá trị của hàng hoá đó. Vì vậy việc bồi thường này bản chất không đem lại lợi ích gì cho chủ hàng. Thiệt hại về giá trị thời gian trong lúc gặp sự cố, thời gian và công sức khắc phục, thiệt hại uy tín với đối tác,… đôi khi còn nhiều hơn giá trị hoàn thành của sản phẩm. Vì vậy không ai chủ động huỷ hoại hàng hoá của mình để nhận tiền bồi thường.
Ngược lại, nếu người được bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không có mối quan hệ khăng khít, người được bảo hiểm sẽ ở tình huống nguy hiểm. Họ tồn tại có thể không được định giá nhưng họ gặp vấn đề là một khoản tiền khổng lồ sẽ được chi trả.
4. Nguyên tắc bồi thường
Bảo hiểm là để bồi thường trong những tình huống có biến cố nào đó xảy ra với đối tượng được bảo hiểm, làm thiệt hại cho bên mua bảo hiểm. Với bảo hiểm phi nhân thọ, đối tượng bảo hiểm là tài sản, hàng hoá,… nguyên tắc bồi thường được triển khai bằng cách đo lường thiệt hại và bồi thường theo những chi phí phát sinh do thiệt hại gây ra, bù đắp giá trị tổn thất mà bên mua bảo hiểm phải gánh chịu.
Trong khi đó, đối tượng được bảo hiểm của bảo hiểm nhân thọ là con người, mà giá trị của con người thì không thể đo lường bằng tiền bạc, khi tổn thất mất mát liên quan đến thể chất, sinh mạng con người thì không thể giám định thiệt hại tài chính. Vì vậy, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ thực hiện bồi thường theo nguyên tắc khoán.
Theo đó, từ lúc giao kết hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm sẽ thỏa thuận trước một số tiền làm phạm vi bảo hiểm. Khi biến cố – sự kiện bảo hiểm xảy ra, người thụ hưởng sẽ nhận được số tiền bồi thường dựa trên số tiền cụ thể đã thỏa thuận kia. Việc chi trả này không nhằm mục đích bồi thường chính xác thiệt hại (yêu cầu sự giám định tổn thất tài chính) mà là thực hiện cam kết theo mức khoán tại hợp đồng đã quy định.
Ví dụ: Khách hàng A mua bảo hiểm bệnh hiểm nghèo cho bản thân. Đến một ngày A được bác sĩ chẩn đoán bản thân mắc bệnh hiểm nghèo, nên công ty bảo hiểm sẽ phải bồi thường cho sự cố này của anh A. Tuy nhiên, việc xác định sự kiện mắc bệnh này tổn thất thế nào là điều không thể làm chính xác vì tình trạng khoẻ mạnh ban đầu của anh A không thể định giá, cũng như không thể giới hạn mức chi phí nào để đảm bảo anh A hồi phục như trước lúc bị tổn thất về sức khoẻ.
Vì vậy ngay từ ban đầu Anh A cần xác định cụ thể rằng, nếu gặp phải biến cố bệnh X, công ty bảo hiểm phải bồi thường một khoản tiền cụ thể tương ứng là Y. Anh A chủ động dùng số tiền Y này theo các mục đích khác nhau, các phương pháp khác nhau nhằm khôi phục sức khoẻ theo ý chí của bản thân. Đó chính là bồi thường khoán.
Mọi vấn đề sẽ trở nên minh bạch và rõ ràng hơn khi nắm bắt được chân tướng của nó. Ở đây, các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm nhân thọ sẽ giúp bạn hiểu hơn về bản chất của sản phẩm tài chính này. Đây là công cụ đắc lực giúp các cá nhân và gia đình đảm bảo sự an toàn tài chính cho các tình huống tương lai.
Tìm hiểu thêm về chân dung các công ty bảo hiểm, bạn sẽ có cái nhìn đầy đủ hơn và các quyết định với sản phẩm này sẽ luôn đúng đắn và có lợi cho bạn.